NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo các tài liệu có trong hồ sơ vụ án và diễn biến tại phiên tòa, nội dung vụ án được tóm tắt như sau:
Khoảng tháng 08/2019, qua mạng xã hội Facebook, Trịnh Thị H quen người phụ nữ tên T (khoảng 30 tuổi) người ở tỉnh Bạc Liêu, hiện đang sinh sống ở Trung Quốc. T cho H biết ở tỉnh Hà Nam - Trung Quốc có nhiều người đàn ông Trung Quốc muốn lấy vợ Việt Nam, nếu ai có nhu cầu lấy chồng Trung Quốc thì giới thiệu, mỗi trường hợp đưa được người sang Trung Quốc, T sẽ trả cho H 04 vạn nhân dân tệ (khoảng 120.000.000đ).
1 Án lệ này do Vụ Pháp chế và Quản lý khoa học Tòa án nhân dân tối cao đề xuất.
2 Sau khi biết được thông tin, H đăng bài
vào hội nhóm “Môi giới kết hôn Trung
- Hàn - Việt” trên mạng xã hội Facebook với nội dung “Hiện có rể người Trung Quốc muốn lấy vợ Việt Nam có cô dâu
nào thật lòng muốn lấy chồng, tìm kiếm
hạnh phúc thì liên hệ” thì H được chị Bùi Thị N sinh năm 1991, trú tại xã Y, huyện G, tỉnh Hải Dương cũng là một trong
những thành viên trong hội nhóm nhắn
tin với nội dung “N có đứa em muốn lấy chồng Trung Quốc thì giúp đỡ”, đồng thời cho số điện thoại của chị N1 để
trực tiếp liên lạc, hướng dẫn N1 kết hôn với
người Trung Quốc.
Ngày 03/01/2020, H cùng Đặng Thị C (là mẹ nuôi H) đến nhà chị Nguyễn Thị N1, sinh năm 1991, ở xã T, huyện K, tỉnh Hải Dương trao đổi thông tin về việc kết hôn với người Trung Quốc, hướng dẫn N1 chuẩn bị các giấy tờ như: Hộ chiếu, sổ hộ khẩu, chứng minh nhân dân, giấy xác nhận tình trạng độc thân để làm thủ tục cấp visa nhập cảnh vào Trung Quốc. Nếu chị N1 và gia đình đồng ý sẽ nhận được tiền sính lễ 60.000.000 đồng từ nhà rể bên Trung Quốc. Tuy nhiên, ông Nguyễn Văn T1 (bố đẻ chị N1) không đồng ý nên giữ lại các giấy tờ của chị N1. Chị N1 vì vẫn muốn sang Trung Quốc kết hôn nên liên lạc với H và được H hướng dẫn đến nhà Đặng Thị C để nói chuyện trực tiếp. Chiều ngày 03/01/2020, khi chị N1 đến nhà C, chị N1 gặp H và C, nhờ H tìm cách cho chị N1 đi sang Trung Quốc. H đã hướng dẫn chị N1 chuẩn bị căn cước công dân để H làm hộ chiếu cho N1 đi “chui” sang Trung Quốc, chị N1 đồng ý.
Ngày 06/01/2020, Trịnh Thị
H nhờ anh Trần Văn H1 (chồng H) đón chị N1 ở
khu vực cầu vượt 789, địa phận phường A, thành phố H, tỉnh Hải Dương lên thành phố Hà Nội làm hộ chiếu cho chị N1. Sáng
ngày 07/01/2020, H tiếp tục nhờ anh H1 thuê
xe taxi đưa chị N1 lên nhà nghỉ Y ở thành phố L, tỉnh Lạng Sơn. H không nói cho H1 biết mục đích việc làm hộ chiếu,
thuê xe cho chị N1 đi Lạng Sơn.Ngày 07/01/2020, H đưa cho C 4.500.000đ qua lái
xe taxi (không nhớ tên, địa
chỉ) để thanh toán tiền xe từ Hải Dương lên Lạng Sơn và thanh toán tiền nhà nghỉ, ăn uống của C và N1 ở nhà nghỉ Y, số
tiền còn thừa C đổi được 300 nhân dân
tệ để sử dụng chi phí trên đường đi đến tỉnh Hà Nam - Trung Quốc. Đồng thời, H cũng liên lạc với anh Vi Văn N2 là
chủ nhà nghỉ Y nhờ xếp phòng nghỉ, thuê
xe chở C, N1 đi đến tỉnh Hà Nam - Trung Quốc. Ngày
08/01/2020, Trịnh Thị H đã đưa chị Nguyễn Thị N1 trốn sang Trung Quốc qua đường mòn biên giới thuộc huyện
L1, tỉnh Lạng Sơn, còn C nhập cảnh vào
Trung Quốc bằng hộ chiếu qua cửa khẩu Chi Ma, tỉnh Lạng Sơn. Đến điểm hẹn ở Trung Quốc, C và N1 tiếp tục đi xe ô
tô đến tỉnh Hà Nam - Trung Quốc gặp mặt
01 người đàn ông Trung Quốc (không rõ tên) dự kiến cho chị N1 lấy làm chồng. Tuy nhiên, khi gặp mặt thì chị N1
không đồng ý, H bảo N1 ở lại nhà người đàn
ông này chờ xem mặt rể khác, nếu không đồng ý N1 phải trả toàn bộ chi phí H đã bỏ ra để đưa N1 đi Trung Quốc. N1 đồng
ý ở lại, nhưng do chờ lâu không xem
mặt được người khác nên N1 đã đến nhà người quen ở tỉnh Quảng Tây - Trung Quốc rồi trình báo Công an Trung Quốc
để được về Việt Nam. Ngày 26/3/2020,
Trạm Kiểm tra biên phòng xuất nhập cảnh Đông Hưng - Quảng Tây -Trung Quốc bàn
giao chị Nguyễn Thị N1 cho Đồn biên phòng cửa khẩu quốc tế Móng Cái, tỉnh Quảng Ninh.
* Tại Bản án hình sự sơ
thẩm số 18/2021/HS-ST ngày 05 tháng 4 năm 2021, Tòa
án nhân dân tỉnh Hải Dương quyết định:
1. Tuyên bố các bị cáo Trịnh
Thị H và Đặng Thị C phạm tội “Mua bán người”.
- Căn cứ điểm d khoản 2
Điều 150, điểm s khoản 1 Điều 51, Điều 17, Điều 58,
Điều 38 Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Trịnh Thị H. Xử phạt bị cáo Trịnh Thị H 09 (chín) năm tù, thời hạn chấp hành
hình phạt tù tính từ ngày tạm giữ 16/10/2020.
- Căn cứ điểm d khoản 2
Điều 150, điểm s khoản 1 và khoản 2 Điều 51,
Điều 17, Điều 58, Điều 38
Bộ luật Hình sự đối với bị cáo Đặng Thị C. Xử phạt Đặng Thị C 07 (bảy) năm tù, thời hạn chấp
hành hình phạt tù tính từ ngày tạm giam
30/9/2020.
2. Về trách nhiệm dân sự: Buộc bị cáo Trịnh Thị H, bị cáo Đặng Thị C phải liên đới bồi thường thiệt hại về danh dự, nhân phẩm và tổn thất tinh thần cho chị Nguyễn Thị N1 số tiền 30.000.000đ (ba mươi triệu đồng); trách nhiệm cụ thể bị cáo Đặng Thị C phải bồi thường 10.000.000đ (mười triệu đồng), bị cáo Trịnh Thị H phải bồi thường 20.000.000đ (hai mươi triệu đồng).
Ngoài ra, bản án sơ thẩm
còn tuyên về xử lý vật chứng, án phí và quyền kháng
cáo theo quy định pháp luật.
- Ngày 16/4/2021, bị cáo
Đặng Thị C có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm
nhẹ hình phạt.
- Ngày 16/4/2021, bị cáo
Trịnh Thị H có đơn kháng cáo với nội dung xin giảm
nhẹ hình phạt.
- Ngày 21/4/2021, bị hại
là chị Nguyễn Thị N1 có đơn kháng cáo quá hạn với
nội dung yêu cầu tăng mức bồi thường danh dự nhân phẩm, tổn thất tinh thần lên mức 80.000.000 đồng và yêu cầu bồi thường
các khoản tổn thất khác là 100.000.000
đồng. Tại Quyết định giải quyết kháng cáo quá hạn
số 36/2021/HSPT-QĐ ngày 17/7/2021,
Tòa án nhân dân cấp cao tại Hà Nội đã chấp nhận đơn kháng cáo của chị Nguyễn Thị N1.
Tại phiên tòa phúc thẩm: Các bị cáo và bị hại là chị Nguyễn Thị N1
do ông Nguyễn Văn T1 đại diện trình
bày như sau:
- Các bị cáo C, H cùng
trình bày nội dung như sau: Các
bị cáo thiếu hiểu biết pháp luật nên vô tình đã phạm tội, bản thân các bị cáo chỉ mong muốn giúp cho chị N1 lấy
được chồng và chính chị N1 cũng mong
muốn bị cáo giúp việc đó. Sau khi phạm tội, các bị cáo luôn thành khẩn khai báo, thái độ ăn năn hối cải, các bị
cáo đều có nhân thân tốt, từ trước đến nay chưa
từng vi phạm pháp luật; gia đình các bị cáo khó khăn, bản thân các bị cáo đều là lao động chính trong gia đình đang
nuôi con nhỏ. Bị cáo C có bố mẹ đẻ được
tặng thưởng Huân, Huy chương, Bằng khen. Các bị cáo đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm hình phạt cho các bị
cáo.
- Bị hại trình bày: Xác nhận tại phiên tòa hôm nay, các bị cáo
đã bồi thường cho bị hại toàn bộ
số tiền 30 triệu đồng như bản án hình sự sơ thẩm đã tuyên và bị hại tự nguyện xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo; đồng
thời, đề nghị Hội đồng xét xử xem xét giảm
hình phạt cho các bị cáo. Đại
diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại Hà Nội sau khi phân tích nội dung vụ án, đánh giá tính chất, mức độ
nguy hiểm của hành vi phạm tội do bị cáo gây
ra, đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ mà Tòa án cấp sơ thẩm đã áp dụng đối với bị cáo thấy Tòa án cấp sơ thẩm
đã xử đúng người, đúng tội, mức án áp
dụng đối với bị cáo là phù hợp. Tại phiên tòa phúc thẩm, các bị cáo đã bồi thường cho bị hại toàn bộ số tiền 30 triệu
đồng như bản án hình sự sơ thẩm đã tuyên
và bị hại tự nguyện xin rút toàn bộ nội dung kháng cáo, do có tình tiết mới nên đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng tình
tiết giảm nhẹ quy định tại điểm b khoản 1
Điều 51 Bộ luật Hình sự cho các bị cáo và áp dụng Điều 348, Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình sự, đình chỉ xét
xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị hại;
chấp nhận kháng cáo của các bị cáo; sửa bản án hình sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân tỉnh Hải Dương theo hướng giảm một
phần hình phạt cho các bị cáo (giảm
cho các bị cáo từ 6 tháng đến 01 năm tù).
Căn cứ vào các tài liệu,
chứng cứ được thẩm tra công khai tại phiên tòa phúc
thẩm; căn cứ kết quả tranh luận tại phiên tòa, trên cơ sở xem xét đầy đủ, toàn diện chứng cứ, ý kiến của Kiểm sát viên, của
bị hại và các bị cáo.
_Xem toàn bộ văn bản>>>>【Án lệ số 66/2023/AL】
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét