NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN:
[1] Hành vi, quyết định tố tụng của các cơ quan điều tra, truy tố, Điều tra viên, Kiểm sát viên và người tiến hành tố tụng khác trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử tại cấp sơ thẩm đã thực hiện đúng về thẩm quyền, trình tự, thủ tục quy định của Bộ luật Tố tụng hình sự. Quá trình điều tra, truy tố và tại phiên tòa, bị cáo, người bị hại không có ý kiến hoặc khiếu nại về hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng. Do đó, các hành vi, quyết định của cơ quan tiến hành tố tụng, người tiến hành tố tụng đã thực hiện là hợp pháp.
[2] Về tội danh: Căn cứ
vào lời khai của các bị cáo, của chị N1, người làm chứng, Biên bản giao nhận người giữa Công
an Móng Cái với tổ chức R, Giấy chứng
nhận về nước của Trạm quản lý xuất nhập cảnh Móng Cái và các tài liệu chứng cứ khác có trong hồ sơ vụ án đã được
thẩm tra tại phiên tòa, có căn cứ xác định
bị cáo H và C đã thực hiện hành vi phạm tội như sau:
[3] H biết đàn ông Trung
Quốc có nhu cầu lấy phụ nữ Việt Nam làm vợ thông
qua người tên là T, quê ở tỉnh Bạc Liêu lấy chồng người Trung Quốc. T nói với H mỗi trường hợp đưa được người sang
Trung Quốc, T trả cho H 04 vạn nhân dân
tệ (tương đương với 120.000.000đ tiền Việt Nam). H bàn và thống nhất với C: H có trách nhiệm tìm người, sắp xếp đi
lại, ăn nghỉ, liên hệ người nhận bên Trung
Quốc và giá cả, còn C phụ trách phiên dịch, đưa người sang Trung Quốc, giao người và nhận tiền về đưa cho H, tiền
trả cho C sẽ thống nhất sau. Nội dung này
tại phiên tòa cơ bản bị cáo H, C thừa nhận, chỉ khác so với giai đoạn điều tra là: Bị cáo H khai sau khi bố chị N1 không
đồng ý cho N1 lấy chồng Trung Quốc thì
H và C mới phân công nhau, C thì cho rằng do H nhờ C đưa chị N1 sang Trung Quốc chứ không bàn bạc gì. Như vậy H và C
có động cơ, mục đích là đưa phụ nữ Việt
Nam sang Trung Quốc giao cho T để T gả bán cho đàn ông Trung Quốc lấy làm vợ và được nhận tiền; H và C không có
chức năng môi giới trong việc lấy vợ hoặc
lấy chồng người nước ngoài, H và C không có ý thức đưa người khác trốn đi nước ngoài và trong vụ án này thì bị hại
là chị N1 được các bị cáo C, H coi như một
vật trao đổi để lấy tiền.
[4] Để thực hiện mục đích
trên, ngày 03/01/2020, H và C đến nhà chị N1 hỏi
nguyện vọng và thuyết phục chị N1 sang Trung Quốc lấy chồng, bằng thủ đoạn: Nói với chị N1 việc đàn ông Trung Quốc
rất chiều vợ, cuộc sống bên đó rất sung
sướng. Nếu chị N1 nhất trí lấy chồng Trung Quốc thì sẽ cho chị N1 xem mặt chú rể và làm thủ tục kết hôn tại Việt
Nam, chị N1 sẽ được số tiền sính lễ 60.000.000đ
và còn được tiền gửi về cho gia đình. Nội dung này bị cáo H đều thừa nhận, còn bị cáo C tại phiên tòa công
nhận là có nói đàn ông Trung Quốc chiều
chuộng, cuộc sống sung sướng, các nội dung khác đều không biết. Chị N1 nghe H và C nói vậy nên mới đồng ý mặc dù
bố mẹ chị N1 không nhất trí cho chị N1
lấy chồng Trung Quốc. Ngày 06/01/2020, H cho người đến đón chị N1 đi Hà Nội làm hộ chiếu. Ngày 07/01/2020, H bố
trí đưa chị N1 lên Lạng Sơn, đồng thời làm
visa, đưa tiền cho C, bắt xe cho C lên Lạng Sơn gặp chị N1 ở nhà nghỉ Y. Ngày 08/01/2020, H và C đưa chị N1 đi đến
tỉnh Hà Nam - Trung Quốc giao chị N1
cho T2 (là người của T) và C nhận 1.000 nhân dân tệ (theo chị N1 cung cấp), số tiền còn lại chuyển H sau. Chị N1 bị
người của T đưa đi gặp 01 người đàn ông dự
kiến lấy làm chồng nhưng chị N1 không nhất trí vì không phải người mà H và C giới thiệu trong ảnh khi ở Việt Nam. Chị
N1 biết là mình bị lừa nên liên hệ với gia
đình và người quen ở Trung Quốc để làm thủ tục trình báo với cơ quan chức năng Trung Quốc. Ngày 26/3/2020, chị N1 được
bàn giao cho lực lượng Biên phòng
Việt Nam tại cửa khẩu Móng Cái - Quảng Ninh, trong văn bản có ghi bàn giao người bị bán sang Trung Quốc.
[5] Như vậy, bị cáo H và
C bằng thủ đoạn lừa nói với chị N1 rằng kết hôn với
đàn ông Trung Quốc được gặp mặt chú rể, làm thủ tục kết hôn tại Việt Nam, được tiền sính lễ, cuộc sống sung sướng,
được tiền gửi về gia đình... Chị N1 tưởng là
thật nên đã đi theo C sang Trung Quốc và bị H, C bán lấy tiền. Bị cáo C trình bày bị cáo không được H cho biết nội dung
cụ thể của việc đưa chị N1 sang Trung Quốc
làm gì mà chỉ giúp H đi phiên dịch và cầm tiền về. Tuy nhiên tại các biên bản lấy lời khai, bản tự khai trong giai
đoạn điều tra, C thừa nhận C và H bàn nhau đưa
phụ nữ sang Trung Quốc lấy chồng để kiếm tiền và có sự phân công nhiệm vụ của từng người, việc đưa người sang
Trung Quốc được 04 vạn nhân dân tệ, C và
H không nói cho N1 biết; ngày 03/01/2020 ở nhà C, chị N1 bảo bố chị N1 không đồng ý nên không có đủ giấy tờ để lấy
chồng Trung Quốc, H bảo chị N1 nếu
không có giấy tờ thì dẫn chị N1 “đi chui” và bảo C đưa chị N1 đi thì C đồng ý, C bảo chị N1 nếu có giấy tờ sang đó sẽ
tốt hơn; H2 ở Lạng Sơn là người chở chị
N đi đường khác sang Trung Quốc. Tại phiên tòa, bị cáo C thừa nhận trong giai đoạn điều tra không bị ép cung, mớm
cung, dùng nhục hình, khai báo tự nguyện,
đúng sự thật. Do đó, cơ cơ sở xác định giữa H và C có sự bàn bạc về việc đưa phụ nữ sang Trung Quốc bán kiếm lời, C
biết chị N1 không có đủ giấy tờ hợp pháp
nhưng vẫn đưa chị N1 sang Trung Quốc, giao cho người khác để nhận tiền. C trình bày trước đây làm giúp việc ở
Macau nhưng chỉ ở trong nhà, không biết đường
đi lối lại ở Trung Quốc nhưng vẫn nói với chị N1 rằng lấy chồng Trung Quốc sung sướng để dụ dỗ, lừa chị N1 đồng
ý cho C và H đưa chị N1 đi.
[6] Căn cứ vào hành vi
các bị cáo đã thực hiện được mô tả như nêu trên, căn
cứ vào hậu quả là chị N1 bị các bị cáo Trịnh Thị H và Đặng Thị C đưa sang Trung Quốc giao cho người đàn ông Trung Quốc
để được nhận lợi ích vật chất là tiền.
Tòa án cấp sơ thẩm xét xử các bị cáo về tội “Mua bán người” theo điểm d khoản 2 Điều 150 Bộ luật Hình sự và áp dụng
mức hình phạt đối với các bị cáo theo
khung hình phạt là phù hợp.
[7] Xét kháng cáo của các
bị cáo:
[8] Tòa án cấp sơ thẩm
trong quá trình xét xử đánh giá vụ án đồng phạm giản
đơn, trong đó xác định bị cáo Trịnh Thị H có vai trò cao hơn bị cáo Đặng Thị C. Đồng thời, trên cơ sở đánh giá các bị
cáo không phải chịu tình tiết tăng nặng trách
nhiệm hình sự, các bị cáo được áp dụng tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự như: Thành khẩn khai báo, thái độ ăn
năn hối cải, hai bị cáo đều có nhân than tốt,
từ trước đến nay chưa từng vi phạm pháp luật, bị cáo C có bố mẹ đẻ được tặng thưởng Huân, Huy chương, Bằng khen; từ đó,
áp dụng mức hình phạt đối với bị cáo
H cao hơn mức hình phạt áp dụng đối với bị cáo C là đúng.
[9] Tại phiên tòa hôm
nay, các bị cáo đã tác động gia đình bồi thường cho người bị hại toàn bộ số tiền 30 triệu đồng
như bản án sơ thẩm đã tuyên, bị hại trực tiếp
nhận tại phiên tòa xác nhận là đúng và tự nguyện rút toàn bộ nội dung kháng cáo; đồng thời, đề nghị Hội đồng xét xử giảm
hình phạt cho các bị cáo. Do tại phiên
tòa có tình tiết giảm nhẹ mới áp dụng cho các bị cáo được quy định tại điểm b khoản 1, khoản 2 Điều 51 Bộ luật Hình sự
và đánh giá trong vụ án này thấy phía bị
hại cũng có một phần lỗi khi tự nguyện để H và C đưa sang Trung Quốc nhằm mục đích kết hôn với đàn ông nước sở tại,
hy vọng được đổi đời, có cuộc sống sung
túc hơn. Hội đồng xét xử thấy có căn cứ áp dụng Điều 54 Bộ luật Hình sự, giảm cho các bị cáo một phần hình phạt là
đúng pháp luật.
[10] Xét kháng cáo của bị
hại:
[11] Tại phiên tòa hôm
nay, bị hại, đại diện theo ủy quyền của bị hại thừa nhận đã nhận đủ số tiền 30 triệu đồng do
các bị cáo bồi thường và tự nguyện xin rút
toàn bộ nội dung kháng cáo. Thấy đây là ý chí tự nguyện của phía bị hại nên Hội đồng xét xử trên cơ sở đề nghị của đại
diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại
Hà Nội, căn cứ Điều 348 Bộ luật Tố tụng hình sự quyết định đình chỉ xét xử phúc thẩm đối với kháng cáo của bị hại.
[12] Tổng hợp những phân
tích nêu trên, Hội đồng xét xử phúc thẩm thấy có
căn cứ chấp nhận kháng cáo của các bị cáo. Quan điểm của đại diện Viện kiểm sát nhân dân cấp cao tại phiên tòa là có
căn cứ, được chấp nhận.
[13] Các phần quyết định
khác của bản án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng
nghị có hiệu lực pháp luật kể từ ngày hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị. Các bị cáo, bị hại không phải chịu án phí
phúc thẩm.
[14] Vì các lẽ trên, căn
cứ Điều 348, Điều 355, Điều 357 Bộ luật Tố tụng hình
sự, Luật Phí và lệ phí; Nghị quyết số 326/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội
quy định về mức thu, miễn, giảm, thu,
nộp, quản lý và sử dụng án phí và lệ phí Tòa án.
_Xem toàn bộ văn bản>>>>【Án lệ số 66/2023/AL】
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét